Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2009

MỘT SỐ BÀI THƠ

Còn đâu hè cũ sống cùng anh
Hồn biếc thắm màu giữa ngày xanh
Mà lòng dậy ve ran đường sấu
Huệ vẫn lan hương ngát mộng lành


*


Cái tuổi của ta, ấy tuổi Dần
Bởi chưng dạy toán quá ra Văn
Không được hầm thiêng thì cũng Hổ
Nhớ rừng từ nhỏ đã quen thân

*


Hà nội vào hè
Nhớ mãi em nghe
Mát rượi hàng me
Ánh trăng lưỡi liềm
Trái tim hồng hay đầu tàu hừng hực
Kéo Mùa Xuân bay lên ?
Bay lên !

Hà nội, 4-1969


*

ĐỌC ỨC TRAI

Dưới gốc thông già, đọc Ức Trai
Xót người xưa nếm mật nằm gai
Phượng hãy tiếc cao, diều hãy lượn
Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi

Gió cuốn đồi thông, bão nổi rồi
Có thổi về đây hồn Ức Trai
Mà đất nước chí nhân thay cường bạo
Giặc vẫy đuôi cầu sống chạy dài

Rừng thông Thượng Lâm
Lục nam, 7-1969


*

MƯA RÀO ĐẦU HẠ

Ơi những trận mưa rào đầu hạ
Mát ngoài da lạnh buốt trong lòng
Khi đôi lứa phương trời đôi ngả
Mưa rào đầu hạ buốt nhớ mong

Hà bắc, 5-1970


HƯƠNG CAU MÙA HẠ

Mùa hạ của trời
Xanh màu xanh của lá
Vàng - đỏ - tím - hồng
Mọng sai chùm quả
Thơm ngát mùi thơm hương cau

Mùa hạ của đời
Xanh năm tháng yêu nhau
Đỏ thắm màu môi
Hồng tươi sắc má

Em ơi
Từ phương trời
Ta nhớ thương nhau
Thơm ngát mùi thơm hương cau
Mùa hạ

Hòa Bình, 1971

Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2009

MỘT SỐ BÀI THƠ

Ta từ Hà Nội về Vinh
Hồ Gươm bịn rịn Ba Đình tiễn đưa
Nửa trời nắng, nửa trời mưa
Một chiều Hà Bắc, một trưa Thái Bình

*

Dạ Hương nồng thơm nức lan xa
Tan trong trăng bạc nước sông Trà
Hay hương của chúng mình thơm mãi
Trên những nẻo đường ta đã qua

Thái Bình, Hè 1963

*

Trăng vào cửa sổ làm chi
Gạo thì đã hết mà mì thì vơi
Chất thơ vốn ở trong nồi
Nhảy quàng xuống giếng để rồi ôm trăng

1967


*

MĂNG

Bóng tre sàng mẻ nắng
Từng hạt, từng hạt vàng
Rắc lên ba lô nặng
Anh hành quân qua làng

Đứng vin vào mầm măng
Đếm từng anh bộ đội
Bầy trẻ chạy lăng xăng
Anh cho em theo với

Thì ra mùa măng mới
Cũng điệp điệp trùng trùng
Như đội ngũ các anh
Ngày đêm tuôn ra trận
Dài như đường tre xanh
Sàng biết bao hạt nắng

Đứng vịn mầm măng thẳng
Là em hay giấc mơ
Tiếc không mang máy ảnh
Anh ghi bằng vần thơ

Bắc Giang, 8 - 1968


*


CHÀO

Chào nhé! Bắc Ninh!
Chào chú, chào anh…!
Chào Đông Du, Quế Võ!
Chào núi, chào sông !
Ta nhớ ngày về giữ đê gian khổ
Xa nhau rồi ! Quế Võ nhớ ta không ?

9 - 1968


KHÓ LẮM

Anh hỏi tên em
Em cười :
-Khó lắm !
Tên em là Khó Lắm, em ơi ?
Rồi mỗi khi lên đài
Ngâm chùm thơ đỏ thắm
Anh chào em : Khó Lắm
Em cười, …

*

Anh lại ra đi
Tháng ngày gội mưa tắm nắng
Đường anh đi
Toàn khó lắm, khổ nhiều

9-1968


TA HỎI

Ta hỏi thao trường rang trong nắng lửa
Có nóng thêm lửa cháy bỏng căm hờn
Cây cỏ đồi cao thêm màu, thêm bóng
Của quân về luyện tập. Có mát hơn

Ta hỏi bạn ta những người chiến sĩ
Mắt nhìn gì trên những tấm bia đen
Đen những đêm dày của bầy quỉ Mĩ
Có thấy quê mình lớp lớp xông lên ?

Ta hỏi bạn ta những người đồng chí

(Đoạn sau mất, chưa tìm thấy)

Khoảng 1968


«

Thứ Năm, 13 tháng 8, 2009

Trường ca: NHỚ

NHỚ
Tặng lớp Thư viện của Bộ Giáo Dục,
Hè 1977

Người về Nghệ-Tĩnh quê ta
Chút tình quê quán gọi là tiễn đưa
Hỏi người đi sớm về trưa
Thăm người năm nắng mười mưa dãi dầu
Hỏi từng đồi sắn bãi dâu
Thăm từng nương mít vườn cau bạt ngàn
Lòng ta ngọt mía Nam Đàn
Thơm khoai chợ Rộ ngon cam Xã Đoài
Non Hồng man mác mây trôi
Dòng Lam sóng vỗ vô hồi lòng ta
Người ơi, người trở lại nhà
Mênh mông thương nhớ lòng ta bồi hồi
Người về thành Huế đường dài
Lòng ta hương nhụy hoa nhài gửi theo
Cùng người Bình-Trị vượt đèo
Mòn con mắt ấy sớm chiều đăm đăm
Tiễn người về với tỉnh Thanh
Lòng ta sông Mã biếc xanh đôi bờ
Nhớ nhau hẹn một ngày vô
Dẫu truông nhà Hồ, dẫu phá Tam Giang
Tấc lòng cố quốc tha hương
Lòng ta khúc ruột miền Trung bời bời
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời thề
Hà Nam Ninh tiễn người về
Con tằm đứt ruột nhớ nghề ươm tơ
Ươm tơ thì giữ đường tơ…
Mười lăm năm ấy đâu ngờ hôm nay
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Tiễn người về đó mà say say lòng
Nhớ chiều tím biếc mênh mông
Một chiều chín nhớ mười mong một chiều
Gió xô lá liễu dập dìu
Hai mắt xanh gợn sóng triều lòng ai?
Ngày xanh ta hãy còn dài
Người về ta hẹn nay mai gặp người
Người về Tây Bắc xa xôi
Lòng ta bổi hổi bồi hồi tiễn đưa
Nửa trời nắng, nửa trời mưa
Một chiều sơn cước, một trưa đồng bằng
Mây đèo gió núi dăng dăng
Người về, người có hay chăng hỡi người
Lòng ta biển biếc xa khơi
Thành tầng mây trắng ngang trời Hoàng Liên
Muôn trùng vời vợi Điện Biên
Lòng mong nhớ ấy một thiên sử lòng
Người về đất Cảng Hải Phòng
Người ra Vùng Mỏ tơ lòng vấn vương
Hồng Gai-Cửa Cấm đôi đường
Song song đôi mặt như gương với hình
Mình ơi mình giúp tiễn mình
Còn than còn đá nặng tình đôi ta
Đường xa, núi cách sông xa
Gần tình gần nghĩa là ta với mình
Tiễn người về Hà Sơn Bình
Lòng ta như lụa Vân Đình tẩm hương
Người về đất tổ Hùng Vương
Người lên Cao Lạng bước đường chia đôi
Lòng ta vằng vặc trăng soi
Mây vờn Tam Đảo ngập trời Tam Thanh
Chưa lên phố Lạng cùng anh
Mà câu bác mẹ sinh thành ra em...
Đã như âu yếm thân quen
Ngân êm tiếng suối Lênin giữa dòng
Một trời núi Mác mênh mông
Đã thành trời thắm xanh trong hai miền
Người về nơi đó đừng quên
Rằng quê hương của trăm miền quê hương
Tình người một dải Bằng giang
Tấm lòng Tô Thị đá vàng sắt son
Gửi lòng một mảnh cỏn con
Tiễn anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Người về Bắc Thái hay chăng
Nhịp cầu Gia Bẩy mảnh trăng sông Cầu
Rùng lên theo nhịp còi tàu
Là lòng ta đó tiễn nhau lên đường
Đậm đà hương vị Tân Cương
Thơm từ chợ Rạ thơm sang Tân Trào
Người về ta gửi lời chào
Quê hương Cách Mạng quê nào đẹp hơn?
Ngút ngàn Việt Bắc căm hờn
Đã thành búp nõn xanh rờn hồn ta
Sông Thương nước chảy lững lờ
Đâu là bên đục, đâu là bên trong?
Sông còn ôm bóng ta không
Những ngày điệp điệp trùng trùng quân đi?
Một trời xao xuyến tiếng ve
Người ơi người ở đừng về người ơi
Tiếng ve sôi, tiếng lòng sôi
Người về Hà Bắc-người ơi, tiễn người
Vần gieo từ đỉnh Thiên Thai
Thành cây trúc mọc, giữa đời trúc xinh
Trúc xinh trúc đứng một mình
Trúc ơi hát khúc tâm tình hộ ta
Hát rằng:
Lên tận non cao tìm Biển Động
Nắng mùa đông đọng sắc mật ong
Trời hẹp bởi lòng người quá rộng
Trăng đu đưa muôn đợt sóng lòng

(Trích trường ca BIỂN ĐỘNG-1973)
Con tàu chuyển mình rời ga Kép
Ngược lên Phương Bắc, về đâu?
Tim nhớ ai mà dồn thêm nhịp
Lồng-ngực-sân-ga triệu chuyến tàu
!
(Trích trường ca ĐƯỜNG TÀU-1972)
Vần bay qua Sủi qua Dâu
Nghiêng vào giếng Bống thành câu trữ tình
Gửi về Hà Bắc tiễn anh
Lòng ta tươi tắn như tranh Đông Hồ
Dài như trưa nắng đồi Ngô
Sâu theo Kim-Chũ-Nghĩa Hồ-Cấm Sơn
Còn trời còn nước còn non
Trường còn Thư viện là còn lòng ta
Hải Hưng, tiễn bạn lại nhà
Tuy không một chén quan hà mà say
Nghìn năm sau nhớ hôm nay
Chia tay ai nỡ lựa dây đoạn trường
Vẫn là năm vấn mười vương
Nhớ về quê nhãn mà thương đến Bần
Đời còn muôn nỗi gian truân
Xa Bần ta lại nhớ Bần biết bao
Nhớ gì mà nhớ nôn nao
Thấm qua da thịt, ngấm vào tận xương
Nhớ từ tám hướng mười phương
Nhớ từ sông Luộc nhớ sang Nhị Hà
Tiễn người về đất Thủ đô
Lòng ta năm ngả cửa ô dồn về
Tím màu hoa vi-ô-lê (violet)
Trái tim xanh của Mùa Hè tiễn đưa
Lòng ta viên gạch Đại La lát đường
Tiễn người về với Thăng Long
Lòng ta một cõi mênh mông của Rồng
Người về, người có hay không
Từng dấu chân, một dấu lòng của ta
Đã thành nắng gió chan hòa
Hát qua Kỷ niệm như là suối reo
Hát rằng:
Hà Nội vào Hè, nhớ mãi nghe em
Mát rợi hàng me, ánh trăng liềm
Trái tim hồng hay đầu tầu hừng hực
Kéo Mùa Xuân bay lên, bay lên
(Trích MIỀN TRUNG-1969)
Còn đâu Hè cũ sống cùng anh
Lá biếc thắm màu giữa đời xanh
Mà lòng dậy, ve ran đường sấu
Huệ vẫn lan hương ngát mộng lành

(Gửi Chính Hữu-1970)
Mấy vần thơ biếc tiễn anh
Bông hồng vàng chửa đặt cành ươm cây
Mùa hoa như đã đâu đây
Đã thành hương nhụy ngát bay giữa lòng
Tiễn người về với mênh mông
Một trời hương nội gió đồng bao la
Thái Bình biển biếc chờ ta
Như là trăng nước sông Trà đợi nhau
Theo trăng từ biển Đồng Châu
Gió lành ngược lối chợ Cầu gió lên
Đón người cùng hội cùng thuyền
Cánh bằng tiễn gió về miền mênh mông
Tiễn người về chốn vẫy vùng
Tiễn người về với sông Hồng đầy vơi
(Phù sa mầu mỡ của đời)
Thuyền về bến cũ, người ơi đợi gì
Châu về Hợp Phố là đây
Thả thơi theo gió mà bay tiễn người
Tiễn người về bốn phương trời
Lòng thành xin một đôi lời nôm na
Rồi đây núi cách sông xa
Lòng vàng là vẫn bao la đất trời
Bần Yên Nhân, 23.7.1977
Phạm Đức Huân
______________________
Đây là trường ca do tác giả Phạm Đức Huân viết trong một buổi sáng để ngay chiều hôm đó đọc tổng kết tiễn các học viên lớp Thư viện về các miền quê của đất nước. Các địa danh tỉnh thành được nhắc đến đều có người tham gia lớp học.

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2009

Lời giới thiệu tác phẩm "Truyện Kiều-hướng về nguyên tác" của GS, NGND Nguyễn Đình Chú

MỘT CON NGƯỜI ĐÁNG QUÝ –
MỘT VIỆC LÀM ĐÁNG TRỌNG
Cuối xuân năm Giáp Thân (2004), tôi bỗng nhiên nhận được quà tặng là cuốn Truyện Thúy Kiều của soạn giả Phạm Đức Huân mà tôi chưa từng biết tên biết mặt, từ quê hương Nghi Lộc, Nghệ An thân yêu của tôi gửi ra, kèm theo lá thư có nhã ý muốn tôi viết Lời giới thiệu cuốn sách xuất bản lần sau. Đọc thư, đặc biệt là đọc sách Truyện Thúy Kiều, tôi thực sự kính phục soạn giả và thầm cảm ơn ông đã cho tôi thêm một lần chiêm nghiệm về sự cuốn hút phi thường, bền bỉ của Truyện Kiều, về niềm say mê kỳ lạ của người Việt Nam ta đối với kiệt tác bất hủ này, thêm nữa là để suy nghĩ về chuyện thực hư, chân ngụy trong bảng giá nhân sinh giữa cuộc đời sôi động và cũng là xáo động. Và hôm nay, sau một thời gian nhận được quà tặng, Nhà xuất bản chuẩn bị cho ra mắt Truyện Thúy Kiều có sửa chữa, bổ sung với dự định lấy tên mới là Truyện Kiều – hướng về nguyên tác, thì hỗi ôi! Soạn giả Phạm Đức Huân khả ái khả kính đã thành người thiên cổ. Cho nên tôi xin được coi Lời giới thiệu này không chỉ là chuyện với bạn đọc nơi dương thế mà trước hết là nén nhang tâm thành thắp cho người dưới mộ với ý nghĩ rằng: Ông Phạm Đức Huân không vĩnh biệt trần gian. Ông còn đó với Truyện Kiều – hướng về nguyên tác. Ông đang theo các bậc tiền bối và thay mặt chúng ta đến hầu chuyện cụ Nguyễn Tiên Điền, xin Cụ cho biết bản Truyện Kiều gốc có còn lại ở đâu không.

*
* *

Ông Phạm Đức Huân sinh ngày 13.10.1938 (tức 20.8 năm Mậu Dần) tại xã Thanh Long, huyện Thanh Chương, Nghệ An trong một gia đình có truyền thống Nho học, khoa bảng, từng có hai vị đậu cử nhân, một vị đậu 3 lần tú tài. Thuở nhỏ, ông học trường làng, sau đó học trường trung học Đặng Thúc Hứa vốn có tiếng là trường có nhiều thầy giỏi, trò giỏi trong phạm vi tỉnh Nghệ bấy giờ. Tiếp đến học trường Sư phạm Sơ cấp Khu Bốn, ra dạy cấp I tại các xã Nam Giang, Nam Thượng thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An. Kế nữa, học trường Sư phạm Trung cấp Thái Bình và ra dạy toán cấp II tại thị xã và huyện Đông Hưng thuộc tỉnh Thái Bình. Năm 1968, trong phong trào chống Mỹ, ông nhập ngũ. Sau 1975, xuất ngũ và lại về với nghề dạy học rồi làm công tác quản lý giáo dục cho đến năm 1986 thì nghỉ hưu. Năm 1990 chuyển về sống tại thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Sau này lại chuyển về sống tại xóm 12, xã Nghi Kim, huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Ông qua đời ngày 08.10.2004.
Ông Phạm Đức Huân đã đi qua giữa cõi đời này 67 năm với một tiểu sử khiêm nhường, đơn giản, không quyền cao chức trọng, không học hàm học vị. Nhưng cuộc sống tinh thần của ông thì lại khá phong phú, đáng kính đáng trọng. Là một giáo viên dạy toán cấp II, nhưng ông rất say mê học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu, kể cả sáng tác văn chương. Ông từng là hội viên Hội văn nghệ của tỉnh Thái Bình. Trong thời gian ở quân ngũ, đã tham gia trại sáng tác cùng với một số bạn về sau rất nổi tiếng như nhà viết kịch kiêm thi sĩ Lưu Quang Vũ, nhà thơ Nguyễn Duy… Có người nói tên vở kịch Nổi gió của Đào Hồng Cẩm là có phần gợi ý của Phạm Đức Huân. Ông Huân sáng tác khá nhiều thơ. Một số đã in, một số chưa in. Ông còn viết cả trường ca. Thơ ca của ông thanh thoát, nhẹ nhàng, đậm đà hồn nước hồn quê, giàu chất dân ca truyền thống. Xin dẫn ra đây một đôi bài để bạn đọc cùng thưởng thức.
Bài CON CÒ:
Con cò chở nắng ca dao,
Bay la bay lả đậu vào nôi thơm.
Con cò nuôi cái cùng con,
Còn nuôi cả giấc ngủ tròn em thơ.
À ơi…, tiếng mẹ ru hờ,
Cò mở cánh ủ giấc mơ thêm nồng.
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo nuôi chồng chẳng quản ngày đêm.
Chẳng may sa sảy cành mềm,
Xáo măng! Cò cũng có thèm sợ đâu.
Sợ chăng là nước đục ngầu,
Xáo măng nước đục thì đau lòng cò!
Con cò bay suốt giấc mơ,
Cánh cò nâng bổng tuổi thơ bao đời!
«
Lớn lên, em lớn lên rồi,
Bao mơ mộng giữa nôi đời thênh thang.
Con cò chở nắng đồng xanh,
Còn nghiêng cánh vẫy giấc lành tuổi thơ?
Hay là sớm nắng chiều mưa
Lắm khi đục nước thân cò béo thêm?
Con cò mà đi ăn đêm…
Lòng cò: lòng mẹ, lòng em, thuở nào…
Con cò chở nắng ca dao,
Tự ngàn xưa có đậu vào HÔM NAY?
«
Hỡi ôi! Lòng mẹ ai hay?
Còng lưng bắt tép những ngày còn thơ.
Nuôi con, mẹ đã nuôi cò.
À ơi… tiếng mẹ ru hời… mẹ ơi!

Bài TRE XANH (Gửi Nhuệ, tặng Nguyễn Duy để nhớ lớp viết kịch toàn quân 20 năm trước: 4.1969):
Tre xanh xanh tự bao giờ,
Câu thơ của bạn vương tơ cõi lòng!
Tre xanh từ thuở Lạc Long…
Một đêm biển động phải lòng Âu Cơ.
Tre lên ấm bụi thành bờ,
Thiếp chàng trăng tỏ, trăng mờ sánh vai.
Mảng vui, ngày ngắn tình dài,
Tre xanh ghi tạc bao lời nước non.
Cái đêm vằng vặc trăng tròn,
Đinh ninh hai mặt sắt son một lời.
Tre xanh bổi hổi bồi hồi,
Thiếp chàng như đứng như ngồi chẳng yên.
Một đàn con của Rồng Tiên,
Từ trăm trứng nở, thành tên đồng bào.
Tre xanh đu bổng trời cao,
Hát ru cùng gió nôi chao trưa hè.
Giã từ bên lũy tre quê,
Chàng xuôi biển cả, thiếp về non cao.
Tre xanh xanh ngắt một mầu,
Sử xanh tre tạc mãi câu ân tình.
Tre xanh ôm bóng một mình,
Bước đường sẻ nửa mối tình chia ba.
Tre xanh xanh tự bấy giờ,
Chuyện ngày xưa đến bao giờ cũng xanh.

Thái Bình, 4.1989
Ông Phạm Đức Huân còn viết kịch. Vở kịch Trường học mới ông viết ngày tham gia trại viết kịch toàn quân 4.1969, về sau được giải thưởng của Bộ Giáo dục. Vở kịch Trên một trang sách đã được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Ông còn viết báo về nhiều đề tài với các bút danh: Phạm Đức Huân, Hồ Thị Cúc, Giang Châu trong các mục: "Thường thức gia đình", "Mẹ kể con nghe",… được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam, in trên các báo Quân đội nhân dân, Văn nghệ, Phụ nữ,… Ngoài ra, ông còn viết tộc phả dòng họ Phạm với niềm thành kính, tri ân và tự hào về Tiên Tổ.

*
* *

Trong thế giới tinh thần của mình, điều mà ông Phạm Đức Huân say sưa, dành nhiều thời gian và tâm huyết nhất, chính là với Truyện Kiều. Cuốn Truyện Kiều – hướng về nguyên tác là kết quả một đời say mê, tâm huyết đó. Thật là cảm động khi được biết, sau cái chết do tai nạn giao thông của người con trai trưởng vốn là sỹ quan quân đội, tinh thần và sức khỏe của ông trong mấy năm trời sa sút nghiêm trọng mà ông vẫn cùng một người bạn già đạp xe đến mộ cụ Nguyễn Tiên Điền khấn lạy xin Cụ cho sống đủ thời gian để hoàn thành công việc biên soạn cuốn Truyện Thúy Kiều. Ngay trước khi qua đời hơn một tháng, không đến Tiên Điền được nữa, tại nhà, ông thắp hương cầu xin cụ Nguyễn Du cho thêm ít ngày. Và đúng là sau ba ngày tạm gọi là hoàn thành việc chỉnh lý để có văn bản Truyện Kiều – hướng về nguyên tác thì ông nhắm mắt xuôi tay, nhẹ nhàng ra đi vào cõi vĩnh hằng.
Với Truyện Kiều, suốt hai trăm năm rồi, trên đất nước ta, hầu như chưa bao giờ vắng lời bình phẩm, chưa bao giờ ngưng nghỉ việc nghiên cứu, khám phá đủ mọi phương diện, trong đó có vấn đề mấu chốt là vấn đề văn bản. Trong vấn đề văn bản, cũng lắm chuyện mà trước hết vẫn là chuyện làm sao tìm lại được bản Truyện Kiều gốc. Mà một khi chưa tìm lại được bản gốc, bản nguyên tác thì làm sao để có bản gần với nguyên tác. Chính ở đây, đã có không biết bao nhiêu công sức, bao nhiêu cách nghĩ, cách làm mà từ đó cũng đã xẩy ra bao nhiêu cuộc tranh luận, bàn cãi, chung quanh các từ này, từ nọ trong Truyện Kiều. Có người sửa lại theo điều mình cho là hay nhất. Hay nhất nhưng chắc gì đã đúng với Nguyễn Du. Có người chỉ làm việc khảo dị từ nhiều bản Kiều Nôm và Kiều quốc ngữ, hoặc chỉ thuần các bản Kiều Nôm để rồi mặc cho độc giả tự chọn, hoặc chính mình cũng tự chọn. Chung quanh việc lựa chọn ngôn từ này, ít nhiều có liên quan đến cách đoán định thời điểm xuất hiện Truyện Kiều là trước hay trong thời Gia Long; đến vấn đề kiêng húy dưới triều Gia Long nói riêng, dưới triều Nguyễn nói chung là thế nào; đến vấn đề tiếng địa phương Xứ Nghệ với Nguyễn Du là gì; đến vấn đề cách đọc chữ Nôm vốn là thứ chữ chưa thật định hình chặt chẽ, đã thế lại còn quan hệ với cách phát âm khác nhau giữa các địa phương; đến vấn đề tư duy ngữ pháp của người Việt thời Nguyễn Du có chỗ khác thời nay… Rõ ràng là không đơn giản chút nào trên con đường hướng về nguyên tác Truyện Kiều. Điều đáng mừng là gần đây, các bản Kim Vân Kiều tân truyện – Duy Minh Thị trùng san – Quan văn đường tàng bản 1879; Kim Vân Kiều tân truyện – Liễu văn đường tàng bản 1871; Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) – bản Kinh đời Tự Đức 1870 và gần đây nhất là bản Kiều 1866 được tìm lại ở Nghệ An (không thật đầy đủ) và bản Kiều 1833 (do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng tặng lại nhà nghiên cứu Nguyễn Thạch Giang) lần lượt được in ấn và phổ biến. Tuy vậy, đây cũng chỉ là những bản Kiều nói cổ nhất với khả năng phát hiện hiện tại thì đúng, còn nói gần nguyên tác nhất thì cũng không hẳn là đơn giản.
Giữa một tình hình chung như thế, ông Phạm Đức Huân đã làm gì với công trình Truyện Kiều – hướng về nguyên tác? Trong Lời nói đầu, ông nói: … khôi phục một bản Truyện Kiều đúng với nguyên tác là khó làm nổi nếu không muốn nói là không thể làm được. Tuy nhiên, rồi cũng có một bản Truyện Kiều "vừa ý" về mặt văn bản. Mơ ước đó từ hơn 40 năm nay chúng tôi vẫn náo nức mong chờ. Chắc là ông có mong chờ ở người khác. Nhưng tự ông, ông cũng bắt tay vào việc thực hiện sự mơ ước đó bằng trí lực, tâm lực của mình hơn mười lăm năm trời để có được một văn bản Truyện Kiều – hướng về nguyên tác (chứ không phải nguyên tác) vừa ý, trước hết là để gia dụng cho con cháu trong nhà, vừa ý trong nhà. Để có được sự vừa ý trong nhà, ông tiến hành khảo dị 9 bản Kiều Nôm, 12 bản Kiều quốc ngữ theo tinh thần không thiên vị một bản nào tuy vẫn luôn coi trọng bản Nôm xưa như bản Liễu văn đường-1871, bản Duy Minh Thị (1879) và một số bản quốc ngữ ngày nay như bản Nguyễn Thạch Giang (1972, 2002), Đào Duy Anh (1979), Vũ Văn Kính (1998),… Ông quan niệm từ đúng của Nguyễn Du, là đúng nghĩa, sát nghĩa, thông nghĩa,… cho câu, đúng văn cảnh, hợp văn lý cùng với phong cách và bút pháp viết ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH của cụ Nguyễn Du. Về đại thể, cách làm và quan niệm thế nào là từ đúng của Nguyễn Du, ông Huân không khác những người đi trước – nhưng cái khác, cũng có thể nói cái mới của ông là ở chỗ chỉ ra những điều cụ thể thuộc bút pháp, phong cách ngôn từ của Nguyễn Du để từ đó tạo cho mình một hệ tiêu chí trong việc suy đoán, lập luận chọn từ mà mình cảm thấy đúng với Nguyễn Du hơn. Đó là các hiện tượng:
Ưa viết câu chữ cân đối gồm cả tiểu đối và bình đối;
Ưa dùng đối xứng 4 âm tiết;
Sành dùng thành ngữ, thích lẩy ca dao, tục ngữ cùng với thú chơi chữ;
Có nhiều điển cố văn học và một ít từ địa phương như từ Xứ Nghệ;
Dùng câu đảo (để nhấn mạnh, làm nổi bật ý), đảo chữ cho đúng luật thơ lục bát.
Từ những căn cứ trên, với Truyện Kiều – hướng về nguyên tác, trong số những từ đang có tranh chấp soạn giả đã nêu lên hơn 330 từ cho là đúng của Nguyễn Du (Những từ đáng tin) và 157 từ còn phải ngờ được ghi bằng ký hiệu N (Câu chữ còn ngờ). Điều lý thú chứng tỏ phần nào một không khí hợp lực mê Kiều là trong số 157 từ N có 19 từ do con trai và bạn ông gợi ý. Ông có ghi cụ thể hẳn hoi trong công trình của mình. Với mỗi trường hợp tin và ngờ, ông đều có cách biện giải công phu, sáng rõ theo quan điểm, khả năng lập luận và trình độ kiến thức thông thái của mình. Tôi hy vọng rằng bạn đọc sẽ đón nhận ở đây trước hết là một thái độ khoa học nghiêm túc, một trạng thái lao động cật lực và từ đó cũng là nhiều điều khám phá, tìm tòi lý thú mà ông Phạm Đức Huân – một nhân cách đẹp – đã cống hiến cho chúng ta, cho khoa Kiều học. Tất nhiên, cùng với sự quý trọng việc làm của ông, hẳn chúng ta cũng hiểu trong khoa học, không ai dám nói rằng đây đã là tiếng nói cuối cùng. Bởi khoa học đích thực theo ngôn ngữ của Pháp là "rechercher" tức là chercher et rechercher: tìm đi, tìm lại, cứ thế, cứ thế… nhất là khoa học trong văn chương mà người xưa đã từng nói quá lên rằng: "văn chương tự cổ vô bằng cứ".
Bạn đọc kính mến! Như thế là tôi đã có đôi Lời giới thiệu cuốn sách Truyện Kiều – hướng về nguyên tác của soạn giả Phạm Đức Huân với bạn đọc. Nhưng đến đây tôi lại muốn xin phép quý vị cho tôi thắp tiếp một nén nhang tâm thành trước linh hồn ông Phạm Đức Huân mà khấn rằng: cầu mong ông được siêu sinh tĩnh độ ở thế giới bên kia. Gia đình, bạn bè, những người Việt Nam cùng say mê Truyện Kiều luôn nhớ tiếc, kính trọng ông. Sinh thời, ông tự kể: "Thúy Kiều theo tôi ra trận, vươn theo nòng đại bác ngâm thơ." Thì từ đây, Thúy Kiều lại ru ông, ru mãi trong giấc ngủ ngàn thu.
Hà Nội, Xuân Ất Dậu (2005)
Nguyễn Đình Chú
(Giáo sư-Nhà giáo nhân dân)

Một số thông tin về nhà giáo Phạm Đức Huân

NHÀ GIÁO PHẠM ĐỨC HUÂN (1938-2004)
Sinh ngày: 20 tháng 8 năm Mậu Dần (13-10-1938).
Mất ngày: 25 tháng 8 năm Giáp Thân (08-10-2004).
Quê quán: Thanh Long - Thanh Chương - Nghệ An.
(xóm Trung Chính- xã Quảng Xá- tổng Võ Liệt)
Xuất thân trong gia đình có truyền thống dạy học.
Từ năm 1957-1960, ông Phạm Đức Huân dạy học ở Nam Đàn-Nghệ An. Năm 1960 ra Thái Bình học trường Sư phạm Trung cấp, dạy môn Toán. Tổng động viên năm 1968, ông đi bộ đội ở Trung đoàn 564, Quân khu Tả Ngạn. Trong thời gian tại ngũ tiếp tục dạy học, tham gia sáng tác, hoạt động văn nghệ. Năm 1975 về phục viên, dạy học đến năm 1976. Từ 1976-1986 công tác tại phòng Giáo dục huyện Đông Hưng-Thái Bình rồi nghỉ hưu. Tham gia sinh hoạt ở Hội văn nghệ Thái Bình. Năm 1990 chuyển đến sống ở thị xã Tam Điệp-Ninh Bình. Đến năm 1993 về sống ở xã Nghi Kim-Nghi Lộc-Nghệ An.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, ông đầu tư công sức nghiên cứu Truyện Kiều. Được sự ủng hộ của Nhà xuất bản Nghệ An, đến tháng 01 năm 2004 cuốn Truyện Thúy Kiều do ông khảo đính được in. Vào mùa thu 2004, mặc dù lâm bệnh nặng, ông vẫn cố gắng làm việc để hoàn chỉnh cuốn sách. Trước khi ông mất ba ngày, mới tạm coi chỉnh lý xong văn bản Truyện Kiều – hướng về nguyên tác. Trở về cõi vĩnh hằng, ông được bà con, bạn hữu trân trọng gọi tên thụy: Thông Mẫn – Chính Trực phủ quân.